Thực đơn
Hatsuharu_(lớp_tàu_khu_trục) Những cải biến trong thiết kếKhi chạy thử máy Hatsuharu được khám phá là bị lật nghiêng trầm trọng, với thời gian lật nghiêng rất ngắn và nó nghiêng một góc 38° ở tốc độ cao khi khi bánh lái được đặt ở góc 10°, chứng tỏ rằng chiều cao khuynh tâm của nó quá thấp. Vào tháng 9 năm 1933, Hải quân Nhật yêu cầu bổ sung một bầu 300 milimét (12 in) mỗi bên mạn lườn tàu để gia tăng chiều rộng mạn tàu và gia tăng chiều cao khuy nh tâm. Hatsuharu và Nenohi được cải biến sau khi đã hoàn tất; Wakaba và Hatsushimo được cải biến đang khi chế tạo; còn Ariake và Yugure chỉ ở vào giai đoạn đầu nên được thay đổi thiết kế với chiều rộng mạn tàu tăng thêm 1 mét (3,3 ft). Những bầu này được ước lượng đã bổ sung thêm trọng lượng 30 tấn (30 tấn Anh; 33 tấn thiếu) đối với lúc chạy thử máy.[18]
Hatsuharu vào lúc được tái cấu trúcSự kiện tàu phóng lôi Tomozuru bị lật úp vào năm 1934 đã buộc Hải quân phải đánh giá lại lượng vũ khí nặng được trang bị cho Hatsuharu và các lớp khác. Mọi chiếc trong lớp Hatsuharu đều được cải biến để tăng cường độ thăng bằng:[19]
Hai chiếc đầu tiên trong lớp, Hatsuharu và Nenohi, đã được đưa ra hoạt động vào lúc xảy ra sự kiện Tomozuru. Chúng được rút khỏi phục vụ và cải biến tại Xưởng hải quân Kure. Bốn chiếc còn lại trong lớp vẫn còn đang được chế tạo và được cải biến trước khi hoàn tất.[19]
Do những vấn đề về độ ổn định bộc lộ bởi Hatsuharu trong khi chạy thử, Ariake và Yugure được cải biến với hai bánh lái thăng bằng đặt ngay phía sau các chân vịt và nghiêng ra ngoài một góc 18,5° nhằm giảm góc nghiêng khi bẻ lái. Điều này đã khiến tốc độ của chúng bị giảm đi 1 hải lý một giờ (1,9 km/h). Cuối cùng chúng cũng bị tháo dỡ do dư thừa sau khi chạy thử máy vì cả hai chiếc đều được tái thiết kế để phản ảnh những bài học của sự kiện Tomozuru.[20]
Do kết quả của những hư hại gây ra cho lườn tàu của hai tàu khu trục lớp Fubuki trong một cơn bão vào ngày 26 tháng 9 năm 1935, cuộc điều tra tiếp theo sau đã đưa đến việc mọi chiếc trong lớp Hatsuhuru phải trải qua 3 tháng trong ụ tàu để gia cường thêm lườn tàu, khiến nó nặng thêm 54 tấn, các thùng dằn cố định tăng từ 64 lên 84 tấn. Công việc này cộng với những cải biến trước đó khiến những con tàu nặng hơn 23,2%, giảm đi 33% số ngư lôi trang bị, và chậm hơn 3 hải lý một giờ (5,6 km/h) so với những tiêu chuẩn thiết kế ban đầu.[10]
Thực đơn
Hatsuharu_(lớp_tàu_khu_trục) Những cải biến trong thiết kếLiên quan
Hatsune Miku Hatsukoi Limited. Hatsuyuki (lớp tàu khu trục) Hatsuharu (lớp tàu khu trục) Hatsukawa Minami Hatsuzuki (tàu khu trục Nhật) Hatsuyuki (tàu khu trục Nhật) (1928) Hatsushimo (tàu khu trục Nhật) Hatsuharu (tàu khu trục Nhật) Hatsuse (thiết giáp hạm Nhật)Tài liệu tham khảo
WikiPedia: Hatsuharu_(lớp_tàu_khu_trục) http://www.combinedfleet.com/hatsuh_c.htm http://www.combinedfleet.com/hatsuh_t.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNJAP_25mm-60_mg.h... http://homepage2.nifty.com/nishidah/e/stc0425.htm http://www.globalsecurity.org/military/world/japan... http://www.worldcat.org/wcpa/oclc/77257764